Các thông tin về đình sau đây là lược trích từ trang web Quận 8, hình ảnh và chú thích hình là của tui.
Đình Phong Phú tọa lạc tại số 46 đường Phong Phú, phường 12, quận 8, thành phố Hồ Chí Minh; tên đường Phong Phú được đặt từ thời Pháp thuộc đến nay. Đình Phong Phú được xây dựng sau khi thôn Phong Phú được thành lập. Thôn Phong Phú được thành lập khoảng thời gian từ năm 1816 – 1833. Đình Phong Phú cũng được xây dựng trong thời gian này, tức khoảng gần 200 năm. Vị trí đầu tiên là bên bờ kinh Đôi, dời đến vị trí hiện nay khoảng 1917.
Trên trần chánh điện nhang vòng rất nhiều, cho thấy đây là một công trình tín ngưỡng theo văn hóa người Hoa
Đình Phong Phú tọa lạc tại số 46 đường Phong Phú, phường 12, quận 8, thành phố Hồ Chí Minh; tên đường Phong Phú được đặt từ thời Pháp thuộc đến nay. Đình Phong Phú được xây dựng sau khi thôn Phong Phú được thành lập. Thôn Phong Phú được thành lập khoảng thời gian từ năm 1816 – 1833. Đình Phong Phú cũng được xây dựng trong thời gian này, tức khoảng gần 200 năm. Vị trí đầu tiên là bên bờ kinh Đôi, dời đến vị trí hiện nay khoảng 1917.
Mái đình. Phù điêu trước cửa đình. Do khuôn viên quá nhỏ nên đáng lẽ là bình phong thì đình chỉ có thể làm phù điêu
Đình Phong Phú là di tích kiến trúc nghệ thuật cấp thành phố, diện tích khoảng 600 m² . Các thành phần kiến trúc võ ca, tiền điện, chính điện được xây dựng theo kiểu nhà năm gian, tiếp nối nhau trên một trục dọc, riêng nghĩa từ xây theo kiểu nhà ba gian, nằm bên trái chính điện. Võ ca và mỗi điện thờ đề có nóc mái riêng, lợp ngói ống, đỡ lấy lớp mái này là bộ cột, kèo, rui làm bằng gỗ.
Trước võ ca là khoảng sân nhỏ đặt bàn thờ Thiên phụ địa mẫu đối diện với bức phù điêu Thần Hổ tên vách mặt tiền. Bên trên phù điêu Thần Hổ có hàng chữ “Đình Phong Phú”.
Tiền điện bày ba hương án ở gian giữa và hai gian bên; hương án giữa thờ Thần hoàng, hai bên trái phải là án thờ Tả ban, Hữu ban.
Hương án thờ Thần hoàng
Hương án thờ Hữu ban
Hương án thờ Tả ban
Chính điện là nơi được bài trí trang trọng nhất trong đình. ở ba cửa võng trước chính điện trang trí ba bao lam chạm trổ các đề tài mẫu đơn –trĩ, mai – điểu… Trên các thân cột treo các cặp liễn đối chạm chìm chữ Hán, sơn son thếp vàng. Gần cuối chính điện có năm khám thờ bày thành một hàng ngang. Khám thờ Thần Thành hoàng bổn cảnh được bày ở gian giữa. Khám thờ Tả ban và Hữu ban đặt ở hai bên trái phải gian thờ Thần. Hai bên ngoài sát vách tường bên trái là nơi thờ Chúa sinh nương nương đối xứng với gian thờ Ngũ hành nương nương ở sát vách tường bên phải.
Chúa sinh Nương nương
Bên trái chính điện có cửa vào gian nghĩa từ, nơi thờ các vị có công với làng xã, đình miếu. Ở giữa nhà nghĩa từ là bàn thờ và tượng Địa tạng vương Bồ tát.
Tượng Địa tạng vương ở nhà Nghĩa từ
Các hiện vật trong di tích:
- Khám thờ, bài vị, long vị, tượng thần (gỗ - thạch cao).
- Khám thờ, bài vị thờ tả ban, hữu ban (gỗ).
- Khám thờ, bộ tượng Chúa sinh nương nương (gỗ, thạch cao)
- Bộ tượng 12 Mụ bà (thạch cao).
- Khám thờ, tượng thờ Ngũ hành nương nương (gỗ).
- Binh khí, bát bủu, đỉnh trầm, lư hương – liễn đối, hoành phi, phù điêu (gỗ).
Phạm Hoài Nhân