Đôi khi tui cũng lấy vài câu trong bài thơ để minh họa cho một ý tưởng nào đó, vì thấy nó hợp với tình huống đang viết, dù chẳng ăn nhập với ý tưởng chung của bài thơ. Chẳng hạn như:
Một câu hỏi lớn không lời đáp
Nên đến bây giờ mặt vẫn chau
Điều tui tò mò là: Mặt mũi các vị La Hán ấy như thế nào khiến ông Huy Cận ổng ngắm nghía rồi làm ra bài thơ như vậy? và Chùa Tây Phương ở đâu, mà nghe cứ như là... Tây Phương cực lạc?
1. Chùa Tây Phương
Chùa Tây Phương vốn chính tên không phải là Tây Phương, mà là chùa Sùng Phúc. Sở dĩ có tên gọi Tây Phương vì chùa tọa lạc trên núi Tây Phương (tên cũ là núi Câu Lâu), ở độ cao khoảng 50 met (tương tự chùa Bửu Phong ở Biên Hòa). Hồi Huy Cận đến đây thì địa chỉ của chùa là xã Thạch Xá, huyện Thạch Thất, tỉnh Hà Tây - còn bây giờ là xã Thạch Xá, huyện Thạch Thất, TP. Hà Nội!
2. Các vị La Hán
Thường trong các chùa có bộ tượng La Hán thì đầy đủ là 18 vị (Thập Bát La Hán), tuy nhiên ở trong gian thờ chính của chùa Tây Phương ta thấy chỉ có 16 vị tổ sư La Hán thôi, 2 vị còn lại được đặt ở gian ngoài. Các tượng này làm bằng gỗ mít, được coi là có niên đại cuối thế kỷ 18, tác giả là các nghệ nhân làng mộc trong vùng Tổng Nủa, làng truyền thống Chàng Sơn – làng mộc nổi tiếng nhất xứ Đoài thời bấy giờ.
Dưới đây là ảnh 16 vị tổ La Hán chùa Tây Phương do cư sĩ Võ văn Tường thực hiện, đăng trong CD Chùa Việt Nam - Xưa và nay. Các bạn xem và tự nhận xét nhé.
Không chỉ riêng chùa Tây Phương, ngoài Bắc có khá nhiều bộ tượng Thập bát La Hán trong các chùa khác, có nơi làm bằng gỗ, có nơi bằng gốm, lại có nơi là phù điêu, trong đó nhiều bộ cũng độc đáo không kém, chỉ có điều không có ông thi sĩ nào tới làm thơ hoặc có làm thì không... ca ngợi XHCN!
Ở phía Nam cũng có nhiều chùa có bộ tượng Thập bát La Hán và cũng rất độc đáo, nhưng thường thì không cổ xưa như các bộ tượng ngoài Bắc.
Bộ tượng Thập bát La Hán bằng đá, đặt ngoài trời ở chùa Pháp Hoa, TPHCM. (Ghi chú: áo trắng ngồi ở chính giữa không phải tượng La Hán!)
Các vị La Hán chùa Tây Phương
Các vị La Hán chùa Tây Phương
Tôi đến thăm về lòng vấn vương.
Há chẳng phải đây là xứ Phật,
Mà sao ai nấy mặt đau thương?
Đây vị xương trần chân với tay
Có chi thiêu đốt tấm thân gầy
Trầm ngâm đau khổ sâu vòm mắt
Tự bấy ngồi y cho đến nay.
Có vị mắt giương, mày nhíu xệch
Trán như nổi sóng biển luân hồi
Môi cong chua chát, tâm hồn héo
Gân vặn bàn tay mạch máu sôi.
Có vị chân tay co xếp lại
Tròn xoe tựa thể chiếc thai non
Nhưng đôi tai rộng dài ngang gối
Cả cuộc đời nghe đủ chuyện buồn...
Các vị ngồi đây trong lặng yên
Mà nghe giông bão nổ trăm miền
Như từ vực thẳm đời nhân loại
Bóng tối đùn ra trận gió đen.
Mỗi người một vẻ, mặt con người
Cuồn cuộn đau thương cháy dưới trời
Cuộc họp lạ lùng trăm vật vã
Tượng không khóc cũng đổ mồ hôi.
Mặt cúi, mặt nghiêng, mặt ngoảnh sau
Quay theo tám hướng hỏi trời sâu
Một câu hỏi lớn. Không lời đáp
Cho đến bây giờ mặt vẫn chau.
Có thực trên đường tu đến Phật
Trần gian tìm cởi áo trầm luân
Bấy nhiêu quằn quại run lần chót
Các vị đau theo lòng chúng nhân?
Nào đâu, bác thợ cả xưa đâu?
Sống lại cho tôi hỏi một câu:
Bác tạc bấy nhiêu hình khổ hạnh
Thật chăng chuyện Phật kể cho nhau?
Hay bấy nhiêu hồn trong gió bão
Bấy nhiêu tâm sự, bấy nhiêu đời
Là cha ông đó bằng xương máu
Đã khổ, không yên cả đứng ngồi.
Cha ông năm tháng đè lưng nặng
Những bạn đương thời của Nguyễn Du
Nung nấu tâm can, vò võ trán
Đau đời có cứu được đời đâu.
Đứt ruột cha ông trong cái thuở
Cuộc sống giậm chân hoài một chỗ
Bao nhiêu hi vọng thúc bên sườn
Héo tựa mầm non thiếu ánh dương.
Hoàng hôn thế kỷ phủ bao la
Sờ soạng cha ông tìm lối ra
Có phải thế mà trên mặt tượng
Nửa như khói ám, nửa sương tà.
Các vị La Hán chùa Tây Phương!
Hôm nay xã hội đã lên đường
Tôi nhìn mặt tượng dường tươi lại
Xua bóng hoàng hôn, tản khói sương.
Cha ông yêu mến thời xưa cũ
Trần trụi đau thương bỗng hoá gần!
Những bước mất đi trong thớ gỗ
Về đây, tươi vạn dặm đường xuân.
27-12-1960
Phạm Hoài Nhân
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét