Lăng mộ và đền thờ Đức Quốc Công hiện vẫn còn ở Gò Công, gọi là Lăng Hoàng gia. Đây là một di tích văn hóa lịch sử cấp quốc gia, và là một kiến trúc đặc sắc.
Đền thờ Đức Quốc Công Phạm Đăng Hưng
Chi tiết hơn về ông Phạm Đăng Hưng và gia đình họ Phạm nổi tiếng này xin xem tại đây (bảng giới thiệu đặt tại Lăng hoàng gia):
Như ta thấy trong bảng trên, có một chi tiết rất thú vị là vua Minh Mạng quý ông Phạm Đăng Hưng tới mức không chỉ cưới con gái của ông cho thái tử con trai mình, mà còn gả công chúa con gái mình cho con ông là Phạm Đăng Thuật nữa. Đây quả là một cặp thông gia mật thiết, sâu đậm.
Chuyện về bà Từ Dụ sách vở đã viết nhiều rồi, bài viết này xin được kể thêm về cuộc tình của phò mã Phạm Đăng Thuật và công chúa. Chuyện tình của họ là một thiên tình sử lâm ly...
Phạm Đăng Thuật là con út (thứ 18) của ông Phạm Đăng Hưng, em bà Từ Dụ. Năm 1850, ông kết hôn với công chúa Nguyễn Phúc Vĩnh Trinh, được phong làm Phò mã Đô úy, sau thăng Lang trung bộ Lễ.
Công chúa Nguyễn Phúc Vĩnh Trinh sinh năm 1824, tự Trọng Khanh, hiệu Nguyệt Đình, là con thứ 18 của vua Minh Mạng. Bà có tư chất thông minh, tính tình hiếu đễ, khiêm tốn, không ưa xa xỉ, ham đọc sách, được người anh là Tuy Lý vương Miên Trinh, một nhà thơ nổi tiếng đã tận tình chỉ bảo, nên bà thông làu kinh truyện. Bà còn giỏi sáng tác thơ văn, có tập “Nguyệt Đình thi thảo”, được người đương thời đánh giá là “văn chương trác tuyệt” và “giàu thi tính”.
Ông Phạm Đăng Thuật và công chúa Vĩnh Trinh sống với nhau rất hạnh phúc, tâm đầu ý hợp, xướng họa vô cùng tương đắc. Hai người có với nhau một con gái tên Uyển La, sinh năm 1857. Trong một cuộc hội thảo về văn hóa Huế, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm (nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương) cho biết: “Khu vườn (của bà Nguyệt Đình và chồng) được đặt tên là Túc Ung viên, nghĩa là khu vườn của sự kính trọng và hòa thuận, ít nhiều nói lên tình nghĩa vợ chồng cao quý của họ. Vườn trồng 36 cây vải, tức cây lệ chi. Theo bản thảo Hán tự, cây lệ chi còn có tên là “thập bát nương” (cô nàng 18). Về thứ thế trong gia đình, bà Nguyệt Đình thứ 18 và ông Thuật cũng thứ 18. Sự trùng hợp kỳ lạ đó nhắc người ta trồng 36 cây vải để vợ chồng mãi mãi gắn bó bên nhau”.
Từ đường thờ phò mã Phạm Đăng Thuật và công chúa Quy Đức
Năm
1861, giặc Pháp xâm chiếm 3 tỉnh miền Đông, vua Tự Đức cử cậu mình là phò mã Phạm Đăng Thuật vào Nam xem xét tình hình, nhiệm
vụ hết sức nặng nề và nguy hiểm. Thật không may, khi đến Biên Hòa thì phò mã lâm bệnh và qua đời. Vua Tự Đức vô cùng thương tiếc, truy tặng ông
hàm Quang Lộc tự khanh.
Hết lòng thương yêu chồng, công chúa Vĩnh Trinh dâng biểu xin vua đưa thi hài ông về an táng tại Huế, thủ tiết thờ chồng. Những nỗi khổ đau trong đời bà chỉ còn biết chia sẻ cùng cô con gái Uyển La. Đau đớn thay, chỉ ít lâu sau khi phò mã qua đời thì Uyển La cũng mất. Từ đó bà vò võ một mình, sống ở sinh phần cạnh mộ phò mã.
Hết lòng thương yêu chồng, công chúa Vĩnh Trinh dâng biểu xin vua đưa thi hài ông về an táng tại Huế, thủ tiết thờ chồng. Những nỗi khổ đau trong đời bà chỉ còn biết chia sẻ cùng cô con gái Uyển La. Đau đớn thay, chỉ ít lâu sau khi phò mã qua đời thì Uyển La cũng mất. Từ đó bà vò võ một mình, sống ở sinh phần cạnh mộ phò mã.
Năm 1876, vua Tự Đức phong bà là Quy Đức công chúa.
Bà mất năm 1892, thọ 68 tuổi, táng chung một chỗ với chồng.
Hiện nay, từ đường thờ công chúa Quy Đức và phò mã Phạm Đăng Thuật ở đường Lê Ngô Cát, xã Thủy Xuân, thành phố Huế, do ông Phạm Ngọc Công - một hậu duệ của dòng họ Phạm trông coi thờ tự. Trên bàn thờ trong ngôi từ đường cũng là cung phủ ngày xưa của công chúa Quy Đức có một bức song ảnh (ảnh hai người) rất độc đáo.
Hiện nay, từ đường thờ công chúa Quy Đức và phò mã Phạm Đăng Thuật ở đường Lê Ngô Cát, xã Thủy Xuân, thành phố Huế, do ông Phạm Ngọc Công - một hậu duệ của dòng họ Phạm trông coi thờ tự. Trên bàn thờ trong ngôi từ đường cũng là cung phủ ngày xưa của công chúa Quy Đức có một bức song ảnh (ảnh hai người) rất độc đáo.
Đó là hai cái bóng người tô mực đen theo lối nhìn nghiêng đối diện nhau, chính là bóng của hai ông bà từ thuở xưa. Bây giờ ta có smartphone, tha hồ chụp ảnh cùng nhau, up lên Facebook xoành xoạch, nhưng hồi đó làm gì có máy chụp hình, nên dựa vào ánh đèn, hai ông bà đã cho vẽ hình mình lên tường để lưu giữ hình ảnh vợ chồng.
Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm khẳng định: “Tôi xem bức song ảnh này, có vẻ đã được khôi phục lại, nhưng câu chuyện về bức song ảnh là hoàn toàn chân thực, đã làm ta xúc động tận đáy lòng về tình yêu của họ ngày nào”.
Lăng mộ Đức Quốc Công Phạm Đăng Hưng. Ở Lăng Hoàng gia này có mộ của các vị trong dòng họ Phạm Đăng, chỉ riêng phò mã Phạm Đăng Thuật thì được an táng tại Huế theo nguyện vọng của công chúa Quy Đức.
Phạm Hoài Nhân
Viết theo tư liệu tại Lăng Hoàng gia, Song Lan (báo Ấp Bắc) và Nguyễn Đắc Xuân
Tui cũng họ Phạm nè cha nội!, cũng dân BH lun...he.he...Tui thích siu tầm những tài liệu xưa cũ nên mới dẫn dắt tui vô cái blog của cha nè! Bắt tay mần quen cái coi. Hôm nào quởn ghé Thuỷ Tùng hay Qtreo uống cà phe nha. Nhìn hình tui đoán cha sinh năm 60, thuộc tần lớp trí thức, còn tui sinh 63, thuộc tần lớp trí...ngũ..he.he...
Trả lờiXóaBạn đoán xém chút nữa là đúng boong. Tui sinh năm 1959. Hẹn có dịp gặp.
XóaTrang Facebook của tui là: https://www.facebook.com/phnhan