Chùa Sắc Tứ là tên gọi chung cho các ngôi chùa được triều đình sắc phong, thường là do có công lớn hoặc được thừa nhận chính thức có giá trị đặc biệt về tôn giáo, lịch sử và văn hóa. Còn Hộ Quốc là bảo vệ đất nước.
Đã Sắc tứ mà còn Hộ Quốc nữa, ngôi chùa này ắt là vô cùng nổi tiếng!
Chùa Hộ Quốc: ở bờ phía Nam sông Phước Long, thuộc địa phận thôn Đắc Phước, huyện Phước Chánh, do thống suất Nguyễn văn Vân dựng. Năm Giáp Dần, đời Túc Tông, được ban biển ngạch chữ vàng, khắc chữ "Sắc tứ Hộ Quốc tự", phía tả khắc những chữ" "Long Đức tứ niên, tuế thứ Ất Mão, trọng đông cốc đán"(Ngày lành tháng 11, năm Ất Mão Long Đức thứ 4, 1735); phía hữu khắc chữ "Quốc chủ Vân Tuyền đạo nhân ngự đề". Ngày nay dấu cũ vẫn còn.
Nguyễn văn Vân được đề cập ở đây chính là Nguyễn Cửu Vân, danh tướng thời Nguyễn.
Trong bài viết Nhận diện những ngôi chùa xưa ở Nam bộ qua "Gia Định thành thông chí" trên báo Giác Ngộ ngày 15/1/2008 nhà nghiên cứu Lý Việt Dũng viết:
“Chùa Sắc Tứ ở bờ Nam Phước Giang, cách trấn về phía Đông 8 dặm, do Chánh thống suất Nguyễn Vân kiến lập. Năm Giáp Dần đời Túc Tông Hiếu Ninh hoàng đế thứ 10 (Ninh vương Nguyễn Phúc Chu) (1734) (Lê Thuần Tông niên hiệu Long Đức thứ 3, Đại Thanh Ung Chính thứ 12), ngự ban biển ngạch chữ vàng, đề chữ: Sắc tứ Hộ Quốc tự, bên trái khắc: Long Đức tam niên. Tuế thứ Giáp Dần trọng thu. Bên phải khắc: Vân Tuyền Đạo nhân viết. Nét chữ mạnh mẽ; cảnh chùa trang nghiêm, cửa thiền thanh tịnh, thật là nơi lạc thổ của Nam tông (do Lục tổ Huệ Năng sáng lập). Sau bị Tây Sơn phá hủy tượng Phật, cột mái đều hư hỏng, nay làm nhỏ lại và lợp tranh, vẫn còn di tích”.
Chùa Sắc tứ Hộ quốc khoảng năm 1969 - 1970. Ảnh: Tom Reckers
So sánh đoạn này với đoạn trong Đại Nam nhất thống chí ta thấy có chút khác biệt. Đó là câu khắc bên trái là "Long Đức tam niên. Tuế thứ Giáp Dần trọng thu" thay vì "Long Đức tứ niên, tuế thứ Ất Mão, trọng đông cốc đán".
Đoạn trích này của thầy Lý Việt Dũng được dẫn lại ở một vài nơi khác, với lời dẫn là "theo Gia Định thành thông chí". Thế nhưng khi tui đọc hết quyển Gia Định thành thông chí, bản dịch của chính tiên sinh Lý Việt Dũng thì không hề thấy đoạn nào nói về chùa Hộ Quốc cả. Không biết tiên sinh dẫn nguồn từ đâu.
Về chữ Quan trong tên chùa Sắc tứ Hộ quốc quan, cũng trong bài viết nêu trên nhà nghiên cứu Lý Việt Dũng giải thích và kiến nghị:
Biển hiệu đề bằng chữ Hán là “Sắc tứ Hộ Quốc Quán tự” và bằng chữ Quốc ngữ là chùa Sắc tứ Hộ Quốc Quan. Biển đề như vậy vừa thừa chữ vừa phiên âm nhầm chữ Quán thành Quan. Nguyên khi xưa, từ Quán để chỉ nơi tu hành của đạo sĩ đạo Lão như Tam Thanh quán chẳng hạn, và từ đạo sĩ dùng để chỉ tu sĩ đạo Lão... Nhưng về sau, từ Quán cũng được dùng để chỉ chùa Phật, bằng cớ là ngay trong Gia Định thành thông chí, cụ Trịnh Hoài Đức cũng đã dùng chữ Quán để chỉ ngôi chùa, đó là ở trang 506, phần nguyên văn đoạn nói về miếu Quan Đế “Điện vũ hoằng lộ, sóc tượng cao trượng dư, hậu Quan Âm quán”, nghĩa là: “(Miếu Quan Đế) điện mái to đẹp, đắp tượng cao hơn trượng, phía sau có chùa Quan Âm". Vậy đã “Tự” thì không “Quán” như tên biển hiệu vua ban thời xưa. Còn nay đã sửa “Tự” thành “Quán” thì đã có “Quán” không thêm “Tự” nữa và trong ngữ cảnh này không thể đọc là Quan được mà phải đọc là Quán. Cũng vì đọc nhầm là Quan nên có người lý giải nhầm là Quan Tự tức chùa công, chùa của quan dựng, bởi chùa này do Chính Thống suất Nguyễn Vân xây... Hiểu như vậy là do nghĩ rằng Quan tự viết là tức chùa của cơ quan, như Quan điền là ruộng công, nguyên do sâu xa là không phân biệt quan và quán. Theo Từ Hải, Quan tự là chùa do vua ra lệnh xây hồi xưa, trong tâm lý quần chúng không thích loại chùa này nên Bạch Cư Dị có câu thơ mỉa: “Quan tự thành hương thiểu. Tăng phòng ký túc đa”, nghĩa là: “Chùa công đàn việt hành hương ít. Phòng tăng sư ở nhiều”. Vậy xin đề nghị Hòa thượng trụ trì hãy để biển lại là “Sắc tứ Hộ Quốc quán” - “Chùa Sắc tứ Hộ Quốc”.
Chùa Sắc tứ Hộ quốc ngày nay. Ảnh: GH Phật giáo Việt Nam TP Biên Hòa
Lược qua những chi tiết này, vì tui không phải là nhà nghiên cứu để tìm hiểu cặn kẽ, điều khái quát mà tui có thể kết luận là: chùa Sắc tứ Hộ Quốc ở Tân Vạn, Biên Hòa hiện nay là một ngôi chùa cổ do do chánh thống suất Nguyễn Cửu Vân (Nguyễn Vân, Nguyễn văn Vân) kiến lập, được chúa Nguyễn Phúc Chu sắc tứ năm 1735. Chùa đã bị hư hại rất nhiều.
Chánh điện chùa Sắc tứ Hộ quốc. Ảnh: GH Phật giáo Việt Nam TP Biên Hòa
Ngày nay, chùa Sắc tứ Hộ quốc nằm khá khiêm tốn ở một hẻm nhỏ tại Tân Vạn, bên sông Đồng Nai, quy mô vừa phải. Chùa cũng không được xếp vào dạng cổ tự như các ngôi Bửu Phong, Đại Giác, Long Thiền, vì kiến trúc ngày nay hầu như đều là làm mới lại về sau này.
Một số hình ảnh chụp tại chùa Sắc tứ Hộ quốc. Ảnh: Phạm Hoài Nhân
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét